Ở các nước phát triển, đa số các công ty XNK đều thuê Đại lý hải quan thực hiện phần việc này cho họ. Ở VN, đa số các công ty XNK tự khai báo hải quan.
Trong thời bao cấp, Dịch vụ khai thuê hải quan còn chưa được công nhận và xem như “cò”. Năm 2001, lần đầu tiên dịch vụ khai thuê hải quan được công nhận và đưa vào Luật Hải Quan.
Luật Hải quan ban hành ngày 21.6.2001, có hiệu lực từ 1.1.2002. Trong Luật Hải quan, lần đầu tiên tại VN có một định nghĩa về những người và công ty cung cấp dịch vụ môi giới khai thuê hải quan. Cụ thể điều 21 như sau:
“Điều 21. Đại lý làm thủ tục Hải Quan
1. Người đại lý làm thủ tục hải quan là người khai hải quan theo ủy quyền của người có quyền và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK, NK.
2. Người đại lý làm thủ tục hải quan phải hiểu biết pháp luật hải quan, nghiệp vụ khai hải quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi được ủy quyền.
Chính phủ quy định cụ thể điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan.”
Mặc dù có hiệu lực từ 1.1.2002 nhưng mãi đến ngày 16.6.2005 Chính phủ mới ban hành Nghị định số 79/2005/NĐ-CP quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan. Bộ Tài chính ban hành thông tư số 73/2005 ngày 5.9.2005 hướng dẫn thực hiện nghị định 79/2005 của Chính phủ.
Thực hiện nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 02.6.2010 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, Bộ Tài chính đánh giá lại tình hình hoạt động của đại lý hải quan. Từ đề nghị của Bộ Tài chính, chính phủ đã ban hành NĐ 14/2011/NĐ ngày 16.2.2011 nhằm thay thế NĐ 79.
Bộ Tài chính cũng ban hành thông tư 80/2011/TT-BTC ngày 9.6.2011 hướng dẫn thực hiện thông tư này.
Mục đích của Chính phủ và Bộ Tài chính khi ban hành là nhằm tạo thuận lợi và phát triển hơn nữa hoạt động của đại lý hải quan. Và thực tế các qui định đã tạo điều kiện thuận lợi hơn so với trước đây để đại lý hải quan có thể phát triển.
Mặc dù được Chính phủ cũng như các cán bộ ngành quan tâm nhưng sự phát triển của đại lý hải quan vẫn rất chậm chạp. Tính đến nay, cả nước chỉ mới có khoảng 100 doanh nghiệp được công nhận đủ điều kiện hoạt động đại lý hải quan, chỉ chiếm khoảng 10% trên tổng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics. Số tờ khai mà đại lý hải quan hoàn thành khoảng 70.000 tờ, chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số 2.5-3 triệu tờ khai/năm.
Nguyên nhân:
- Số lượng đại lý hải quan hoạt động đúng nghĩa rất hạn chế. Nghĩa là các đại lý vẫn thực hiện việc khai thuê hình thức ủy quyền mà không thực hiện ký tên trên tờ khai do e ngại trách nhiệm pháp lý.
- Phần lớn các đại lý hải quan chưa có kế hoạch mở rộng hoạt động địa lý hải quan.
- Trình độ nghiệp vụ của nhân viên đại lý hải quan chưa đồng đều, nhân viên có thẻ đại lý hải quan nhưng chưa cập nhật và nắm sâu về chính sách và thủ tục liên quan.
- Đa phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa nhận thức đầy đủ và đúng nghĩa về đại lý hải quan. Bên cạnh đó có phần chưa tin tưởng vào đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan, muốn tự mình làm thủ tục hải quan.
- Các doanh nghiệp lớn thường tổ chức các bộ phận chuyên trách (Phòng XNK) để làm thủ tục hải quan mà không cần thuê đại lý hải quan.
Giải pháp:
- Các đại lý hải quan cần phải hoạt động đúng nghĩa. Khi cung cấp dịch vụ khai thuê hải quan phải ký tên trên tờ khai và chịu trách nhiệm về quá trình khai báo của mình.
- Mạnh dạn từ bỏ hoạt động dưới dạng ủy quyền.
- Tăng cường đội ngũ nhân viên đại lý hải quan để nâng cao chất lượng dịch vụ và đáp ứng được nhu cầu từ phía khách hàng.
- Chính phủ và hải quan cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để đại lý hải quan phát triển. Cơ quan hải quan cần triển khai cụ thể về việc thực hiện nghị định 14 của Chính phủ và Thông tư 80 của Bộ Tài chính.